Cách sử dụng từ chè và trà
1. Cách dùng chữ “Trà” và “Chè” xưa và nay trong tiếng Việt
Trong các tác phẩm văn chương xưa và nay các nhà thơ, nhà văn, nhà báo đã viết như sau:
- Kinh đô Thăng Long 36 phố phường có câu ca dao "Uống chè mạn hảo, ngâm nôm Thuý Kiều".
- Kinh đô Thăng Long 36 phố phường có câu ca dao "Uống chè mạn hảo, ngâm nôm Thuý Kiều".
- Lê Quý Đôn trong Vân Đài loại ngữ (1773) cuốn bách khoa từ điển đầu tiên ở Việt Nam đã viết "... tỉnh Thanh Hoá sản xuất thứ chè ấy, mọc xanh om đầy rừng. Thổ dân hái lá chè đem về, có một làng tên là Vân Trai, giáp Bạng Thượng chuyên nghề làm chè giã nát để bán, gọi là chè Bạng."
- Nguyễn Trãi thì viết:
- Nguyễn Trãi thì viết:
Cởi tục chè thường pha nước tuyết,
Tìm thanh trong vắt tịn chè mai.
- Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) trong Vũ trung tuỳ bút cũng viết: "Kẻ thì ưa thanh cao, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên, mua cho được chè ngon, bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có kẻ đặt tiền mua sẵn cho được hiệu chè Chính Sơn mà ung dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức".
- Nhưng Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, lại dùng chữ trà để chỉ sản phẩm như trong bài Chén trà sương "Sớm nào dạy cụ cũng ngâm một vài bài thơ. Giọng thật ấm, thật trong, cụ hay ngâm mấy câu:
- Nhưng Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, lại dùng chữ trà để chỉ sản phẩm như trong bài Chén trà sương "Sớm nào dạy cụ cũng ngâm một vài bài thơ. Giọng thật ấm, thật trong, cụ hay ngâm mấy câu:
Mai sớm một tuần trà,
Canh khuya dăm chén rợu,
Mỗi nhật cứ như thử,
Lương y bất đáo gia.
Thời nay miền Bắc vẫn dùng chữ chè chỉ cả cây chè và sản phẩm chè.
"Chắc chắn nước chè xanh là mặt hàng cốt yếu" (Nguyễn Chí Hoan, 1997); hay các câu "Văn hoá chè và Trà đạo Việt Nam" (Ngô Linh Ngọc, 1999); "Viện Nghiên cứu Chè Phú Hộ có nhiều giống chè như Trung du, Shan, Trung Quốc và Ấn Độ"; hoặc "Vinatea trong năm 1998 đã xuất khẩu 17.000 tấn chè đen, chè xanh"; "Nguồn gốc cây chè và nghệ thuật pha uống chè" (Minh Viễn, 1997).
Còn ở miền Nam thì dùng chữ trà và chè, có phân biệt rõ ràng cây trồng và sản phẩm chế biến như " Công ty Chè Lâm Đồng có trà Rồng vàng "; " Người dân miền Nam thích uống trà Tiến Đạt, Đỗ Hữu, Quốc Thái, Thiên Hương, Trâm Anh"; " Trạm Nghiên cứu thực nghiệm Chè Lâm Đồng có nhiều giống chè như TB 14, LĐ 97, PH 1..."Trong y học dùng chữ Trà như sau: "Ngày nay y học vẫn phát triển các loại trà thuốc này, ngay cả các nước có công nghiệp hoá dược hiện đại. Việt Nam đang bào chế các loại trà giải nhiệt, trà an thần, trà chống cảm cúm... Liên Xô cũ có trà khai vị, trà vitamin, trà lợi mật, trà lợi tiểu, trà nhuận tràng, trà chữa bệnh thận (Đặng Hanh Khôi - 1983).
Tóm lại miền Bắc dùng một chữ chè để chỉ cả cây trồng và sản phẩm chế biến từ lá chè, còn miền Nam phân biệt hai chữ, chè là cây trồng và trà là sản phẩm chế biến từ lá chè.
Ngôn ngữ viết và nói về chữ trà dùng ở Việt Nam từ lâu đời, có nguồn gốc từ Trung Hoa và đã trở thành một từ Việt phổ thông trong dân gian. Theo Giáo sư Diệp Đình Hoa (1999) chữ trà là âm Hán Việt, còn chữ chè là âm Việt Hán.
"Chắc chắn nước chè xanh là mặt hàng cốt yếu" (Nguyễn Chí Hoan, 1997); hay các câu "Văn hoá chè và Trà đạo Việt Nam" (Ngô Linh Ngọc, 1999); "Viện Nghiên cứu Chè Phú Hộ có nhiều giống chè như Trung du, Shan, Trung Quốc và Ấn Độ"; hoặc "Vinatea trong năm 1998 đã xuất khẩu 17.000 tấn chè đen, chè xanh"; "Nguồn gốc cây chè và nghệ thuật pha uống chè" (Minh Viễn, 1997).
Còn ở miền Nam thì dùng chữ trà và chè, có phân biệt rõ ràng cây trồng và sản phẩm chế biến như " Công ty Chè Lâm Đồng có trà Rồng vàng "; " Người dân miền Nam thích uống trà Tiến Đạt, Đỗ Hữu, Quốc Thái, Thiên Hương, Trâm Anh"; " Trạm Nghiên cứu thực nghiệm Chè Lâm Đồng có nhiều giống chè như TB 14, LĐ 97, PH 1..."Trong y học dùng chữ Trà như sau: "Ngày nay y học vẫn phát triển các loại trà thuốc này, ngay cả các nước có công nghiệp hoá dược hiện đại. Việt Nam đang bào chế các loại trà giải nhiệt, trà an thần, trà chống cảm cúm... Liên Xô cũ có trà khai vị, trà vitamin, trà lợi mật, trà lợi tiểu, trà nhuận tràng, trà chữa bệnh thận (Đặng Hanh Khôi - 1983).
Tóm lại miền Bắc dùng một chữ chè để chỉ cả cây trồng và sản phẩm chế biến từ lá chè, còn miền Nam phân biệt hai chữ, chè là cây trồng và trà là sản phẩm chế biến từ lá chè.
Ngôn ngữ viết và nói về chữ trà dùng ở Việt Nam từ lâu đời, có nguồn gốc từ Trung Hoa và đã trở thành một từ Việt phổ thông trong dân gian. Theo Giáo sư Diệp Đình Hoa (1999) chữ trà là âm Hán Việt, còn chữ chè là âm Việt Hán.
2. Nguồn gốc chữ chè và trà
Từ - một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ - không chỉ là một âm thanh cùng với thuộc tính vật lý, mà còn có ý nghĩa tín hiệu và định nghĩa sự vật của hiện thực khách quan. Từ chè - trà vừa mang nội dung khái quát hoá, vừa mang nội dung cụ thể hoá về cây chè. Cây chè có trước, rồi mới có từ chè - trà. Có tìm được nguồn gốc cây chè, mới rõ từ này xuất xứ ở đâu trước. Trong cuốn từ điển Tiếng Việt, của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Việt Nam, Bộ GDĐT, do Hoàng Phê chủ biên, (1998)
- Chữ chè có hai nghĩa:
1/ Cây nhỏ lá răng cưa, hoa mầu trắng, quả có ba múi trồng để lấy lá, búp, nụ pha nước uống, ví dụ hái chè, pha chè, chè đen, chè xanh, chè tươi...;
2/ Món ăn ngọt nấu bằng đờng hay mật, với chất có bột nh gạo, đậu..., ví dụ chè đờng, chè bà cốt, chè đậu đãi...
- Chữ trà có bốn nghĩa:
1/ Lá cây chè đã sao, đã chế biến, để pha nước uống, ví dụ pha trà, ấm trà ngon, hết tuần trà...
2/ Cây cảnh cùng loại với họ chè, hoa đẹp, màu trắng, hồng hay đỏ, ví dụ trà hoa nữ, cây trà mi...
3/ Tập hợp những cây cùng loại, cùng gieo trồng và thu hoạch trong một thời gian, một đợt, ví dụ trà lúa sớm, trà khoai muộn...; một lứa tuổi, ví dụ hai đứa cùng trà, cùng trật với nhau, lỡ trà con gái...
4/ Lẩn vào đám đông nào đó để khỏi bị phát hiện, ví dụ kẻ gian trà trộn vào hành khách đi tàu.
3. Nguồn gốc chữ trà trong lịch sử cổ đại Trung hoa (Vương Úc Phong, 1991).
a. Sự định dạng và định hình của chữ trà ở Trung Hoa.
Trong thời cổ đại Trung Hoa còn cha có chữ viết. Dựa vào truyền thuyết và ngôn ngữ, các nhà khảo cổ đã xác định chữ trà (văn tự trà) có từ Đời Nhà Chu. Trong cuốn sách cổ Nhĩ Nha (Nói về cây cối) Đời Nhà Chu, do Dịch Lâm biên soạn, có ghi câu "Giả - khổ trà " (Giả là chè đắng). Âm đọc của chữ trên là Jỉa, gần giống âm chữ trà.Trước Đời Nhà Tần, ngôn ngữ các liệt quốc còn khác nhau và chưa thống nhất. Cùng một sự vật, những tên gọi lại khác nhau và chữ viết cũng không giống nhau. Trước Nhà Đường, chữ Trà có tên gọi và 6 kiểu chữ viết khác nhau.
Bắt đầu từ thời kỳ Trung Đường trở về sau, tên gọi trà thường viết như sau đọc âm CHA. Trước Đời Nhà Đường một chữ có nhiều chức năng khác nhau và một chữ cũng chỉ nhiều sự vật khác nhau. Vào khoảng 750 trớc công nguyên, chữ trà có nhiều nghĩa và chỉ 3 vật khác nhau:
1/ Một thứ nước uống
2/ Một loại cây rau đắng
3/ Hoa trắng của một loại cây cỏ
Trước thời kỳ Trung Đường, từ chữ trà cũ 11 nét bỏ bớt 1 nét ngang ở trên thành chữ trà 10 nét ngày nay. Theo cuốn Trà Kinh của Lục Vũ, chữ trà xuất hiện từ thời kỳ khai nguyên văn tự âm nghĩa (bắt đầu có chữ viết). Chữ trà hiện nay đã được định hình trên 1300 năm. Chữ Hán thuộc loại chữ tượng hình. Chữ trà 10 nét, bộ thảo đầu là biểu tượng của lá cây, phần giữa là tán cây, phần dưới là gốc và thân cây 茶.Chữ trà có nhiều cách đọc khác nhau; Trung Hoa là một nước rộng mênh mông, có nhiều dân tộc thiểu số; mỗi dân tộc có cách đọc và viết chữ trà theo tập quán riêng của mình. Ngay cả dân tộc Hán cũng có chữ viết và tiếng đọc khác nhau theo từng vùng lãnh thổ (thổ ngữ, thổ âm). Ngày nay có tới 108 kiểu viết chữ trà của 10 nghệ nhân Vân Nam.
b. Hai luồng truyền bá chữ Trà ra thế giới
Tên gọi của nước trà đều xuất phát từ Trung Hoa truyền đi theo hai luồng sau đây:
1/ Âm Hán phổ thông CHA của Bắc Kinh.
2/ Thổ âm địa phương TEY của vùng Hạ Môn, Phúc Kiến.
Hai âm trên lần lượt truyền bá ra ngoài bằng con đường buôn bán trà với các nước láng giềng, phương Tây và phương Bắc, bằng đường bộ (Con đường tơ lụa) và đường biển (Con đường gia vị).
- Âm CHA chữ Hán, lan truyền đầu tiên sang nước láng giềng phía Đông là Nhật Bản, dùng trực tiếp chữ trà và cũng đọc là CHA. Sau đó lan truyền sang nước phía Tây là Ba Tư (Iran) bằng "Con đường tơ lụa thời Mác cô Pô Lô", gọi là CHA, rồi sau biến âm thành SHAI của người ả Rập; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ gọi là CHAY; tiếng Bồ Đào Nha gọi là CHA; tiếng Nga ở phía Bắc gọi là TRAI; Ấn Độ gọi là CHAI, Srilanka, Pakitxtan gọi là CHA, Việt Nam gọi là trà và chè.
- Thổ âm Hạ Môn TEY truyền bá ra nước ngoài vào thời kỳ cuối Nhà Minh đầu Nhà Thanh, khi các đội thương thuyền của Poctugal, Hà Lan, Anh đến buôn bán trao đổi hàng hoá với Trung Quốc.
Đầu tiên là các đội thương thuyền của Công ty miền Đông ấn Độ, năm 1664 đã cập bến cảng biển Hạ Môn, thiết lập một Phòng thương mại và gọi chè là TEY, theo thổ âm của vùng Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến. Bắt đầu viết sang tiếng Anh là TEE, rồi lại biến thành THEE cuối cùng là chữ TEA ngày nay.Từ đó âm TEA được phổ cập trên thế giới; tiếng Pháp gọi là Thé; tiếng Đức gọi là TEE; tiếng Tây Ban Nha gọi là Té; tiếng Hà Lan gọi là THEE; tiếng La tinh là THEA, tiếng Espéranto là TEO.Theo Answers.com - 2006, trà được đọc theo hai âm khác nhau ở những ngữ ngôn sau:
- Te: gồm có châu Phi (tee), Armenian, Catalan, Danish (te), Dutch (thee), English (tea), Esperanto (teo), Estonian (te), Faroese (te), Finnish (tee), Frenh (thé), Galician (té), German (tee), Hebrew (te hay tei), Hungarian (tea), Icelandic (te), Indonesian (teh), Irish (tae), Italin (té), Latin (thea), Latvian (tẽja), Malaya (teh), Norwegian (te), Polish (herbata thea), Singhale, Spanish (té), Swedish (te), Welsh (te), Yiddish (tei).
- Cha hay Chai: gồm có Albanian (ỗaj), Bulgarian (chai), Japanese (cha), Malayalam, Nepali (chia), Romanian (ceai), Russian (chai), Swahili (chai), Ukraina (chai), Vietnamese (trà và chè). Tại Dublin ở Ireland có khi dùng cha thay tea, ở Bắc Mỹ có khi dùng chai của India nh masala chai. Nhà buôn trà người Anh khi giao hàng tại Canton dùng chữ cha.
Trong thời cổ đại Trung Hoa còn cha có chữ viết. Dựa vào truyền thuyết và ngôn ngữ, các nhà khảo cổ đã xác định chữ trà (văn tự trà) có từ Đời Nhà Chu. Trong cuốn sách cổ Nhĩ Nha (Nói về cây cối) Đời Nhà Chu, do Dịch Lâm biên soạn, có ghi câu "Giả - khổ trà " (Giả là chè đắng). Âm đọc của chữ trên là Jỉa, gần giống âm chữ trà.Trước Đời Nhà Tần, ngôn ngữ các liệt quốc còn khác nhau và chưa thống nhất. Cùng một sự vật, những tên gọi lại khác nhau và chữ viết cũng không giống nhau. Trước Nhà Đường, chữ Trà có tên gọi và 6 kiểu chữ viết khác nhau.
Bắt đầu từ thời kỳ Trung Đường trở về sau, tên gọi trà thường viết như sau đọc âm CHA. Trước Đời Nhà Đường một chữ có nhiều chức năng khác nhau và một chữ cũng chỉ nhiều sự vật khác nhau. Vào khoảng 750 trớc công nguyên, chữ trà có nhiều nghĩa và chỉ 3 vật khác nhau:
1/ Một thứ nước uống
2/ Một loại cây rau đắng
3/ Hoa trắng của một loại cây cỏ
Trước thời kỳ Trung Đường, từ chữ trà cũ 11 nét bỏ bớt 1 nét ngang ở trên thành chữ trà 10 nét ngày nay. Theo cuốn Trà Kinh của Lục Vũ, chữ trà xuất hiện từ thời kỳ khai nguyên văn tự âm nghĩa (bắt đầu có chữ viết). Chữ trà hiện nay đã được định hình trên 1300 năm. Chữ Hán thuộc loại chữ tượng hình. Chữ trà 10 nét, bộ thảo đầu là biểu tượng của lá cây, phần giữa là tán cây, phần dưới là gốc và thân cây 茶.Chữ trà có nhiều cách đọc khác nhau; Trung Hoa là một nước rộng mênh mông, có nhiều dân tộc thiểu số; mỗi dân tộc có cách đọc và viết chữ trà theo tập quán riêng của mình. Ngay cả dân tộc Hán cũng có chữ viết và tiếng đọc khác nhau theo từng vùng lãnh thổ (thổ ngữ, thổ âm). Ngày nay có tới 108 kiểu viết chữ trà của 10 nghệ nhân Vân Nam.
b. Hai luồng truyền bá chữ Trà ra thế giới
Tên gọi của nước trà đều xuất phát từ Trung Hoa truyền đi theo hai luồng sau đây:
1/ Âm Hán phổ thông CHA của Bắc Kinh.
2/ Thổ âm địa phương TEY của vùng Hạ Môn, Phúc Kiến.
Hai âm trên lần lượt truyền bá ra ngoài bằng con đường buôn bán trà với các nước láng giềng, phương Tây và phương Bắc, bằng đường bộ (Con đường tơ lụa) và đường biển (Con đường gia vị).
- Âm CHA chữ Hán, lan truyền đầu tiên sang nước láng giềng phía Đông là Nhật Bản, dùng trực tiếp chữ trà và cũng đọc là CHA. Sau đó lan truyền sang nước phía Tây là Ba Tư (Iran) bằng "Con đường tơ lụa thời Mác cô Pô Lô", gọi là CHA, rồi sau biến âm thành SHAI của người ả Rập; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ gọi là CHAY; tiếng Bồ Đào Nha gọi là CHA; tiếng Nga ở phía Bắc gọi là TRAI; Ấn Độ gọi là CHAI, Srilanka, Pakitxtan gọi là CHA, Việt Nam gọi là trà và chè.
- Thổ âm Hạ Môn TEY truyền bá ra nước ngoài vào thời kỳ cuối Nhà Minh đầu Nhà Thanh, khi các đội thương thuyền của Poctugal, Hà Lan, Anh đến buôn bán trao đổi hàng hoá với Trung Quốc.
Đầu tiên là các đội thương thuyền của Công ty miền Đông ấn Độ, năm 1664 đã cập bến cảng biển Hạ Môn, thiết lập một Phòng thương mại và gọi chè là TEY, theo thổ âm của vùng Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến. Bắt đầu viết sang tiếng Anh là TEE, rồi lại biến thành THEE cuối cùng là chữ TEA ngày nay.Từ đó âm TEA được phổ cập trên thế giới; tiếng Pháp gọi là Thé; tiếng Đức gọi là TEE; tiếng Tây Ban Nha gọi là Té; tiếng Hà Lan gọi là THEE; tiếng La tinh là THEA, tiếng Espéranto là TEO.Theo Answers.com - 2006, trà được đọc theo hai âm khác nhau ở những ngữ ngôn sau:
- Te: gồm có châu Phi (tee), Armenian, Catalan, Danish (te), Dutch (thee), English (tea), Esperanto (teo), Estonian (te), Faroese (te), Finnish (tee), Frenh (thé), Galician (té), German (tee), Hebrew (te hay tei), Hungarian (tea), Icelandic (te), Indonesian (teh), Irish (tae), Italin (té), Latin (thea), Latvian (tẽja), Malaya (teh), Norwegian (te), Polish (herbata thea), Singhale, Spanish (té), Swedish (te), Welsh (te), Yiddish (tei).
- Cha hay Chai: gồm có Albanian (ỗaj), Bulgarian (chai), Japanese (cha), Malayalam, Nepali (chia), Romanian (ceai), Russian (chai), Swahili (chai), Ukraina (chai), Vietnamese (trà và chè). Tại Dublin ở Ireland có khi dùng cha thay tea, ở Bắc Mỹ có khi dùng chai của India nh masala chai. Nhà buôn trà người Anh khi giao hàng tại Canton dùng chữ cha.